Nấm sò (Pleurotus spp) là một loài nấm ăn được thuộc họ Pleurotaceae và được xem là một nấm dược liệu do chứa các statinnhư lovastatin có tác dụng giảm cholesterol, khả năng chống ung thư của nấm do sự hiện diện của lovastatin trong tai nấm... Tuy nhiên, trên thực tế sản xuất hiện nay, có rất nhiều nguồn nấm sò khác nhau được du nhập vào nước ta. Việc sử dụng các nguồn giống khác nhau ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất, nấm không mọc đồng loạt ở các bịch phôi, sản lượng không ổn định, đều đặn, việc thu hoạch kéo dài, thời gian nuôi trồng kéo dài còn làm tăng tỷ lệ nhiễm bệnh, năng suất giảm...

leftcenterrightdel
 

Sau một thời gian nghiên cứu, TS. Nguyễn Thị Bích Thùy và cộng sự thuộc Khoa Công nghệ sinh học – Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã thành công trong việc chọn lọc, khảo nghiệm và phát triển sản xuất giống nấm sò PN1.

Giống nấm sò (Pleurotus spp.) ký hiệu PN1có nguồn gốc từ Thái Lan, được Bộ NN và PTNT cung cấp vào  năm 2015. Giống PN1 có hệ sợi nấm khỏe, sinh trưởng tốt trên mọi nguyên liệu, đặc biệt có khả năng sinh trưởng tốt trên nguồn rơm rạ ủ lên trong tự nhiên (nguyên liệu không qua khử trùng ở nhiệt độ cao).

leftcenterrightdel
 

Thời gian hệ sợi nấm mọc kín giá thể nuôi trồng ngắn hơn các giống nấm sò khác cùng nuôi trồng 1 thời điểm khoảng 3- 5 ngày. Quả thể nấm sinh trưởng được trong biên độ nhiệt độ rộng (từ 160- 350C), màu quả thể thay đổi rõ rệt theo mùa vụ; khác biệt nhiều so với giống nấm sò khác (giống nấm sò khác chỉ có khả năng hình thành quả thể trong biên độ nhiệt độ hẹp, màu sắc quả thể không thay đổi). Quả thể nấm sò PN1 mọc chùm, thời gian ra quả thể phân bố đều trong chu kỳ nuôi trồng (không tập trung vào 1 vài đợt như các giống nấm sò khác) điều này rất thuận tiện cho việc tiêu thụ sản phẩm tươi. Khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, nhiễm nấm mốc và các loại bệnh khác <5%. Đặc biệt sinh trưởng và phát triển ở nhiều vụ trong năm, đây là đặc tính quý phù hợp với nhiều vùng miền của Việt Nam. Năng suất nấm sò PN1 ổn định, độ đồng đều cao (tùy theo thời vụ mà năng suất đạt ở mức 700→750 kg nấm tươi/tấn nguyên liệu khô), cao hơn năng suất của các giống nấm sò khác khoảng 20%.

Trên cơ sở kết quả chọn lọc, khảo nghiệm và phát triển sản xuất giống nấm sò PN1, ngày 30 tháng 1 năm 2018, Hội đồng nghiệm thu đánh giá cấp cơ sở của Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã họp và nhất trí đề nghị công nhận giống nấm PN1 đưa vào danh mục các giống cây trồng được phép sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam.

Thông tin liên hệ: TS. Nguyễn Thị Bích Thùy – Khoa Công nghệ sinh học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. ĐT: 01679171187.

 

Ban Khoa học và Công nghệ