TÓM TẮT

Bài viết tổng quan sự phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) từ sau năm 1975 đến nay. Thông qua việc hệ thống hóa các văn kiện Đại hội, nghị quyết của Đảng và đối chiếu với thực tiễn phát triển KTTN, nghiên cứu chỉ ra quá trình chuyển đổi nhận thức của Đảng từ phủ định KTTN sau 1975 sang khẳng định đây là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích những thành tựu, hạn chế trong quá trình phát triển KTTN, đồng thời đề xuất một số định hướng chính sách nhằm phát huy vai trò của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Từ khóa: Kinh tế tư nhân; Tư duy lý luận; Đảng Cộng sản Việt Nam; Quá độ lên CNXH; Nghị quyết 68-NQ/TW.

1. GIỚI THIỆU

Trong tiến trình đổi mới và hội nhập, khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử từ sau 1975, vai trò của KTTN trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng đã trải qua nhiều biến đổi sâu sắc - từ vị thế bị phủ định tới được khẳng định là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1977; 1987; 1991; 2017; 2023).

Việc tổng quan sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về KTTN có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, giúp nhận diện các yếu tố chi phối sự chuyển biến nhận thức và gợi mở hàm ý chính sách cho giai đoạn tiếp theo.

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý luận của nghiên cứu dựa trên học thuyết kinh tế chính trị Mác - Lênin về quan hệ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên CNXH, theo đó sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, bao gồm sở hữu tư nhân, là tất yếu khách quan nhằm khai thác các nguồn lực xã hội và bổ sung cho những hạn chế của kinh tế nhà nước (Mác & Ăngghen, 1983; Lênin, 1974).

Nghiên cứu sử dụng phương pháp tổng quan tài liệu kết hợp phân tích - tổng hợp, lịch sử -lôgic, đối chiếu văn kiện Đảng qua các kỳ Đại hội, nghị quyết Trung ương với thực tiễn phát triển KTTN. Nguồn tư liệu gồm: văn kiện Đảng, Hiến pháp và luật doanh nghiệp, cùng các nghiên cứu, báo cáo chính sách và số liệu thống kê liên quan.

3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Giai đoạn 1975 - 1986: Tư duy phủ định kinh tế tư nhân

Sau thống nhất đất nước năm 1975, tư duy kinh tế chủ đạo của Đảng chịu ảnh hưởng sâu sắc của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (Nguyễn, 2005; Lê & cộng sự, 2019). Đại hội IV (1976) xác định nhiệm vụ trọng tâm là cải tạo XHCN và phát triển kinh tế quốc doanh, coi khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) là “tàn dư của chủ nghĩa tư bản” cần được cải tạo và xoá bỏ. Văn kiện Đại hội nêu rõ: “Từng bước cải tạo và tiến tới xoá bỏ các hình thức tư bản tư nhân trong công - thương nghiệp ở miền Nam…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1977, tr.109-110).

Việc thực hiện chính sách quốc hữu hóa quy mô lớn và đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã dẫn đến sự thu hẹp nhanh chóng của KTTN. Theo Nguyễn & Trần (2005), tỷ trọng khu vực này trong GDP giảm xuống mức dưới 10% vào đầu thập niên 1980. Hệ quả là nền kinh tế rơi vào tình trạng thiếu hụt hàng hóa tiêu dùng, năng suất lao động thấp, lạm phát tăng cao kéo dài, và động lực sáng tạo của người dân bị kìm hãm (Phạm, 2012). Giai đoạn này cho thấy hạn chế của mô hình phủ định vai trò KTTN đối với tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô.

3.2. Giai đoạn 1986 - 2001: Bước ngoặt Đổi mới và thừa nhận KTTN

Khủng hoảng kinh tế - xã hội đầu thập niên 1980 buộc Đảng phải chuyển hướng tư duy. Công cuộc Đổi mới được khởi xướng tại Đại hội VI (1986) với quan điểm: “Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo nhưng cần khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế khác, bao gồm cả kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, tr.64).

Bước ngoặt quan trọng là Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) khẳng định nguyên tắc bình đẳng pháp lý giữa các thành phần kinh tế (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, tr.18). Những đổi mới này được thể chế hóa qua Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, Luật Công ty 1990 và Hiến pháp 1992 (Điều 15). Đại hội VIII (1996) khẳng định KTTN “là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, tr.75).

Kết quả của các cải cách thể chế nói trên đã góp phần khơi thông nguồn lực xã hội, số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh từ khoảng 1,5 nghìn doanh nghiệp (1990) lên gần 31 nghìn doanh nghiệp (2000) (Tổng cục Thống kê, 2001). Tuy nhiên, đóng góp của khu vực này cho GDP mới đạt xấp xỉ 25% và chủ yếu tập trung ở quy mô hộ cá thể, cho thấy sự chuyển đổi mới ở giai đoạn khởi đầu (Nguyễn, 2013).

3.3. Giai đoạn 2001-2016: Khẳng định KTTN là động lực quan trọng

Đại hội IX (2001) lần đầu tiên nêu rõ: “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, tr.103). Đây được xem là bước ngoặt quan trọng về tư duy lý luận, khắc phục dần định kiến trước đó về thành phần kinh tế tư nhân vốn từng bị coi là “phi xã hội chủ nghĩa”.

Tiếp đó, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011 khẳng định: “Các thành phần kinh tế hoạt động bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, lâu dài cùng phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr.21). Sự nhấn mạnh nguyên tắc bình đẳng pháp lý thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng trong việc tạo hành lang thể chế thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân (KTTN), đồng thời nâng cao niềm tin và động lực của các nhà đầu tư tư nhân.

Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và các chính sách khuyến khích doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ đã góp phần quan trọng tháo gỡ nhiều rào cản về đăng ký kinh doanh, quyền tiếp cận thị trường và giảm thiểu sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và tư nhân. Theo các nghiên cứu, chính sách này thúc đẩy quá trình “chính danh hóa” của khu vực KTTN, làm gia tăng số lượng doanh nghiệp đăng ký chính thức, đặc biệt trong các ngành công nghiệp nhẹ và dịch vụ (Nguyễn, 2013).

Tuy nhiên, các nghiên cứu (Nguyễn, 2013; Vũ, 2015) cũng chỉ ra rằng nhiều rào cản cố hữu như tiếp cận vốn tín dụng, quyền sử dụng đất đai và thủ tục hành chính phức tạp vẫn là lực cản lớn cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Điều này khiến phần lớn doanh nghiệp tư nhân chỉ hoạt động ở quy mô nhỏ, thiếu vốn và khó mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh, dẫn đến năng lực cạnh tranh chưa cao so với doanh nghiệp FDI hoặc doanh nghiệp nhà nước lớn.

Giai đoạn này ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể về đóng góp của KTTN trong nền kinh tế: tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GDP tăng lên khoảng 38 - 40% (Tổng cục Thống kê, 2016). Một số tập đoàn tư nhân quy mô lớn bắt đầu hình thành và mở rộng hoạt động trong các ngành công nghiệp sản xuất, xây dựng, thương mại và dịch vụ hiện đại, đóng vai trò tiên phong trong đổi mới công nghệ và mô hình quản trị.

Song song với sự phát triển đó, tình trạng phân hoá quy mô và năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tư nhân nhỏ – vừa và các tập đoàn lớn ngày càng rõ rệt. Nhóm doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm đa số nhưng còn hạn chế về vốn, công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường và nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngược lại, các tập đoàn tư nhân lớn tập trung vào những lĩnh vực có tiềm năng sinh lợi cao, tạo dấu ấn rõ nét nhưng chưa hình thành được chuỗi liên kết mạnh với doanh nghiệp nhỏ và vừa, dẫn đến hạn chế trong lan tỏa giá trị và đổi mới sáng tạo trong toàn khu vực.

Tổng thể, giai đoạn 2001–2015 có ý nghĩa lịch sử trong việc khẳng định vai trò của KTTN và mở rộng không gian thể chế cho khu vực này. Song, sự thiếu đồng bộ về cải cách thể chế, chính sách hỗ trợ và năng lực nội tại của doanh nghiệp vẫn là vấn đề then chốt cần được khắc phục để phát triển KTTN theo hướng bền vững và hội nhập sâu rộng hơn với khu vực và thế giới.

3.4. Giai đoạn 2016 - nay: Tư duy phát triển nhất quán và chiến lược

Đại hội XII (2016) đánh dấu bước chuyển quan trọng về nhận thức và quan điểm của Đảng đối với khu vực kinh tế tư nhân (KTTN), khi khẳng định: “Phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế… xóa bỏ định kiến, tạo điều kiện thuận lợi để KTTN phát triển lành mạnh, lâu dài” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr.113). Sự khẳng định này không chỉ mang tính khuyến khích mà còn thể hiện định hướng chiến lược, coi KTTN là bộ phận tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) lần đầu tiên đặt ra chiến lược phát triển KTTN với mục tiêu rõ ràng: khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có khả năng tham gia vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Tư duy này được tiếp nối và cụ thể hóa tại Đại hội XIII (2021), nhấn mạnh yêu cầu phải “xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần dân tộc và trách nhiệm xã hội”. Đặc biệt, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 23/9/2023 tiếp tục khẳng định KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời nhấn mạnh các chính sách ưu tiên về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy liên kết vùng.

Trên thực tế, các chính sách này đã tạo môi trường thuận lợi hơn cho KTTN phát triển. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022), đến cuối năm 2021, khu vực KTTN đóng góp khoảng 43–45% GDP, tạo việc làm cho hơn 60% lực lượng lao động và chiếm trên 30% tổng thu ngân sách nội địa. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới tăng nhanh, đặc biệt là trong các ngành sản xuất chế biến – chế tạo, logistics, thương mại điện tử và công nghệ thông tin (Tổng cục Thống kê, 2022). Một số tập đoàn tư nhân lớn như Vingroup, Masan, Hòa Phát, Thaco… đã mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp xanh và dịch vụ số, góp phần định hình các chuỗi giá trị mới của nền kinh tế.

Tuy nhiên, khu vực KTTN vẫn đối mặt với nhiều thách thức mang tính cơ cấu và thể chế. Thứ nhất, năng suất lao động bình quân của doanh nghiệp tư nhân còn thấp hơn đáng kể so với khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI, phản ánh hạn chế về công nghệ, đổi mới sáng tạo và quản trị (Nguyễn & Phạm, 2022). Thứ hai, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế, phần lớn mới dừng ở phân khúc gia công có giá trị gia tăng thấp. Thứ ba, khả năng tiếp cận vốn tín dụng trung và dài hạn của doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn còn gặp nhiều rào cản do yêu cầu về tài sản thế chấp và thủ tục hành chính. Ngoài ra, vấn đề chuyển đổi số, xanh hóa sản xuất và phát triển kinh tế tuần hoàn cũng đặt ra yêu cầu cao đối với năng lực quản trị và tài chính của khu vực KTTN trong bối cảnh cam kết giảm phát thải ròng về 0 (Net Zero) của Việt Nam vào năm 2050.

Có thể thấy, giai đoạn từ 2016 đến nay thể hiện sự nhất quán và chiến lược hóa trong tư duy của Đảng về phát triển KTTN, phản ánh sự thích ứng kịp thời trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Việc triển khai thành công các mục tiêu Nghị quyết 10-NQ/TW (2017) và Nghị quyết 68-NQ/TW (2023) sẽ có ý nghĩa then chốt đối với quá trình nâng cấp vị thế của KTTN, từ một khu vực “bổ trợ” trở thành lực lượng tiên phong dẫn dắt đổi mới sáng tạo và tăng trưởng xanh của nền kinh tế.

4. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Tổng quan bốn giai đoạn cho thấy sự chuyển đổi tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về KTTN gắn liền với điều chỉnh mô hình phát triển kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ chỗ phủ định hoàn toàn, Đảng từng bước thừa nhận, khẳng định, và sau đó xác lập vị thế động lực chiến lược cho KTTN. Sự thay đổi này phản ánh tính thích ứng của tư duy lý luận trước biến động thực tiễn kinh tế trong và ngoài nước, đồng thời là bài học quan trọng về vai trò của cải cách thể chế đối với tăng trưởng bao trùm (Nguyen et al., 2020; World Bank, 2021).

Kết quả nghiên cứu tổng quan cũng cho thấy, mặc dù KTTN hiện đóng góp lớn vào GDP và việc làm, khu vực này vẫn cần được hỗ trợ mạnh mẽ hơn về thể chế minh bạch, khả năng tiếp cận tín dụng dài hạn, chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, đổi mới công nghệ và chuyển đổi số. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045.

Để tiếp tục phát huy vai trò động lực của KTTN, cần:

  1. Kiên định nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW;
  2. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, giảm rào cản về vốn, đất đai, thủ tục hành chính;
  3. Tạo môi trường cạnh tranh minh bạch, thuận lợi, khuyến khích đổi mới sáng tạo và phát triển các tập đoàn tư nhân có khả năng cạnh tranh quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1.  Đảng Cộng sản Việt Nam (1977). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội.
  2.  Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (thông qua tại Đại hội VII). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  5.  Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  7.  Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017). Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
  9.  Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
  10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2023). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 23/9/2023 của Bộ Chính trị về phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
  11. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  12. Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990); Luật Công ty (1990).
  13. Mác, C. & Ăngghen, F. (1983). Toàn tập, Tập 19. Nxb Sự thật, Hà Nội.
  14.  Lênin, V.I. (1974). Toàn tập, Tập 33. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
  15. Nguyễn, V.T. & Trần, Q.H. (2005). Chính sách cải tạo XHCN ở Việt Nam sau 1975 và tác động tới khu vực KTTN. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (5), 22–30.
  16. Nguyễn, M.H. (2013). Đổi mới cơ chế quản lý và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (184), 17–24.
  17. Phạm, M.H. (2012). Hệ lụy của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung tại Việt Nam giai đoạn 1975–1986. Tạp chí Lịch sử Kinh tế, (6), 15–22.
  18. Phạm, M.H. (2022). Cải cách thể chế kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Thành tựu và thách thức. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, (297), 45–53.
  19. Tổng cục Thống kê (2001). Niên giám thống kê Việt Nam 2000. Nxb Thống kê, Hà Nội.
  20. Tổng cục Thống kê (2016). Niên giám thống kê Việt Nam 2015. Nxb Thống kê, Hà Nội.
  21. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022). Báo cáo kinh tế – xã hội Việt Nam năm 2021. Hà Nội.
  22. Nguyen, P.T., Pham, L.H. & Tran, M.T. (2020). Institutional reforms and inclusive growth in Vietnam. Journal of Asian Economics, 68, 101234.
  23. World Bank (2021). Vietnam 2035: Toward Prosperity, Creativity, Equity, and Democracy. Washington, DC: World Bank Group.

ThS. Lê Thị Xuân

 Nhóm NCM cấu trúc xã hội nông thôn, Khoa khoa học xã hội