Ngày 17 tháng 11 năm 2025, tại khoa Tài Nguyên và Môi trường, nhóm Nghiên cứu mạnh “Quản lý tổng hợp tài nguyên đất, nước, dinh dưỡng cây trồng” tổ chức seminar thảo luận các kỹ thuật bảo vệ, phục hồi đất cát và đất xám khô hạn canh tác các cây trồng chủ lực tại duyên hải Nam Trung Bộ. Đây là những kết quả nghiên cứu quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ môi trường “Xây dựng thí điểm mô hình bảo vệ môi trường khu vực đất cát biển và đất xám khô hạn để ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ sản xuất nông nghiệp bền vững vùng duyên hải Nam Trung Bộ” do TS. Nguyễn Thu Hà là chủ nhiệm.

leftcenterrightdel
TS. Nguyễn Thu Hà trình bày nghiên cứu tại seminar 

Tại buổi seminar, TS. Nguyễn Thu Hà trình bày “Dự thảo Hướng dẫn kỹ thuật bảo vệ môi trường khu vực đất cát biển và đất xám khô hạn để ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ canh tác các cây trồng chủ lực vùng duyên hải Nam Trung Bộ”. Đất cát biển và đất xám khô hạn tại khu vực duyên hải Nam Trung Bộ vốn có nhiều điểm hạn chế đối với canh tác nông nghiệp, bao gồm: thành phần cơ giới nhẹ, khả năng giữ nước kém với sức chứa ẩm đồng ruộng thấp; phản ứng ít chua – trung tính, một phần diện tích đất có phản ứng chua; các chỉ tiêu CEC, hàm lượng các cation Ca2+, Mg2+ và Na+ trao đổi phần lớn đều ở mức thấp (đối với đất cát biển) hoặc từ thấp đến trung bình (đối với đất xám khô hạn); hàm lượng chất hữu cơ chủ yếu ở mức nghèo đến trung bình và biến động mạnh, tốc độ hình thành và tích luỹ mùn trong đất thấp trong khi quá trình khoáng hoá chất hữu cơ có xu hướng mạnh; hàm lượng nitơ tổng số, phốt pho tổng số nằm ở mức nghèo đến trung bình; hàm lượng kali tổng số biến động mạnh với khoảng 35,23 – 40,29% số mẫu ở mức nghèo, 21,94 – 50,97% ở mức trung bình và 13,8 – 3,77% ở mức giàu; hàm lượng Phốt pho dễ tiêu ở mức trung bình đến giàu và Kali dễ tiêu ở mức nghèo đến trung bình; mật độ vi sinh vật tổng số chủ yếu nằm ở mức thấp đến trung bình. Với những đặc điểm trên có thể thấy việc áp dụng những biện pháp kỹ thuật canh tác để cải thiện, phục hồi khả năng giữ nước của đất, hàm lượng chất hữu cơ và các chất dinh dưỡng trong đất là rất cần thiết nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững ứng phó khô hạn tại Bình Thuận nói riêng và vùng duyên hải Nam Trung Bộ nói chung.

leftcenterrightdel
Khảo sát môi trường đất cát biển và đất xám khô hạn tại duyên hải Nam Trung Bộ
Khảo sát môi trường đất cát biển và đất xám khô hạn tại duyên hải Nam Trung Bộ 

Các gói kỹ thuật được đề xuất theo các nguyên tắc chung và mục tiêu: (1) Kỹ thuật phổ biến, đơn giản, khả thi và phù hợp với điều kiện, quy trình canh tác hiện có tại địa phương; (2) Cải thiện năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế nhằm đảm bảo cho nông dân áp dụng lâu dài; (3) Bảo vệ môi trường khu vực đất cát biển và đất xám khô hạn.

Đối với nhóm cây ngắn ngày (chủ lực là cây ngô và cây lạc), gói kỹ thuật bón phân hữu cơ và che phủ đất bằng phụ phẩm nông nghiệp được đề xuất. Trong đó các loại phụ phẩm có thể sử dụng gồm rơm rạ, thân lá ngô, cỏ, bã mía, thân lá cây họ đậu…, được xử lý trong khoảng ít nhất từ 7 – 10 ngày trước khi sử dụng nhằm làm mất sức nảy mầm của hạt cỏ/ hạt thóc, diệt các mầm bệnh (nếu có), thúc đẩy thêm quá trình phân giải chất hữu cơ và góp phần tăng mật độ vi sinh vật trong lớp đất mặt sau khi che phủ. Trong gói kỹ thuật này, lượng phân hữu cơ bón cho cây trồng được khuyến cáo giảm bớt so với khuyến cáo trong quy trình của Trung tâm khuyến nông địa phương nhờ việc sử dụng khối lượng 1 – 2 tấn phụ phẩm nông nghiệp khô/ ha đất canh tác. Điều này nhằm đảm bảo lượng chất hữu cơ cung cấp vào đất, đồng thời không làm tăng nhiều chi phí đầu tư vật tư và hiệu qủa kinh tế chung cho nông hộ.

Đối với nhóm cây lâu năm (chủ lực là cây táo xanh và cây xoài), gói kỹ thuật bón phân hữu cơ, trồng xen cây họ đậu và che phủ đất bằng phụ phẩm nông nghiệp được đề xuất. Trong nghiên cứu này, cây đậu đen được trồng xen với cây lâu năm vào mùa mưa nhằm cải tạo đất, đồng thời thu được sản phẩm hạt đậu và một lượng sinh khối xanh có thể dùng để che phủ đất. Vào mùa khô, phụ phẩm nông nghiệp được xử lý và che phủ nhằm giảm bốc thoát hơi nước, tiết kiệm nước tưới và bổ sung chất hữu cơ vào đất. Tương tự đối với cây ngắn ngày, lượng phân hữu cơ bón cho cây trồng cũng được khuyến cáo giảm bớt so với khuyến cáo trong quy trình của Trung tâm khuyến nông địa phương nhờ việc sử dụng khối lượng tương đương 1 – 2 tấn phụ phẩm nông nghiệp khô/ ha đất canh tác.

leftcenterrightdel
Che phủ đất bằng rơm rạ tại mô hình canh tác ngô trên đất xám khô hạn và mô hình canh tác lạc trên đất cát biển
Che phủ đất bằng rơm rạ tại mô hình canh tác ngô trên đất xám khô hạn và mô hình canh tác lạc trên đất cát biển 
leftcenterrightdel
Trồng xen cây họ đậu trong mùa mưa ở mô hình canh tác xoài trên đất xám khô hạn và mô hình canh tác táo trên đất cát biển
 Trồng xen cây họ đậu trong mùa mưa ở mô hình canh tác xoài trên đất xám khô hạn và mô hình canh tác táo trên đất cát biển

Kết quả thực hiện mô hình trình diễn các gói kỹ thuật tại địa phương cho thấy đất cát biển và đất xám khô hạn được bảo vệ và phục hồi độ phì nhiêu thông qua việc duy trì và cải thiện độ ẩm, khả năng giữ ẩm, hàm lượng chất hữu cơ cho đất, mật độ vi sinh vật đất khi canh tác ngô, lạc, táo và xoài dưới tác động của khô hạn và biến đổi khí hậu. Về mặt hiệu quả kinh tế, tuy việc áp dụng các kỹ thuật này làm tăng chi phí vật tư ban đầu nhưng giảm công lao động do giảm công tưới, làm cỏ, phòng trừ sâu bệnh hại, tăng thu nhập do tăng năng suất. Vì vậy lợi nhuận chung cho nông hộ có thể tăng từ 10-20%.

Các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh đã sôi nổi thảo luận những điểm cần chú ý trong từng bước thực hiện các kỹ thuật bảo vệ đất nhằm đạt hiệu quả nông học, hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường cao nhất, đồng thời tăng tính khả thi, khả năng áp dụng các kỹ thuật trên diện rộng tại khu vực duyên hải Nam Trung Bộ. Hướng dẫn kỹ thuật sẽ được nhóm nghiên cứu hoàn thiện và gửi đến các cơ quan quản lý chuyên môn tại địa phương để ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.

Nguyễn Thu Hà, Nhóm NCM Quản lý tổng hợp tài nguyên đất, nước, DDCT